Hội thảo cũng đề xuất các chính sách, giải pháp và khuyến nghị đối với các cơ sở đào tạo, cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp dịch vụ du lịch để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Vừa thiếu, vừa yếu
Cụ thể, với tiêu chí “dễ dàng tìm kiếm nhân viên có tay nghề”, Việt Nam đứng sau hầu hết các nước trong khu vực, trừ Campuchia. Với tiêu chí “quy mô, mức độ đào tạo nhân viên”, Việt Nam cũng chỉ đứng trên Campuchia và Lào.
TS Thanh Hoa cũng thông tin, mỗi năm thị trường nhân lực ngành du lịch trong nước cần thêm 40.000 lao động, trong khi thực tế chỉ có thêm 15.000 sinh viên/học viên ra trường (trong đó có hơn 12% có trình độ đại học, cao đẳng).
Ngoài thiếu hụt về số lượng, khoảng cách về kỹ năng trong lực lượng lao động du lịch hiện nay cũng rất lớn. Chỉ 42% được đào tạo về chuyên ngành du lịch, 38% chuyển từ ngành khác sang, 20% không được đào tạo chính quy. Cơ cấu theo trình độ đào tạo nhân lực thiếu cân đối, chẳng hạn như nhân lực quản trị, giám sát trong doanh nghiệp du lịch chiếm tỉ lệ cao hơn cần thiết, lao động nghề lại thấp.
Không thể mở rộng quy mô ồ ạt
Những trường có chương trình đào tạo đặc thù được tuyển sinh với quy mô không giới hạn nhưng thực tế là các trường cũng không thể tuyển sinh được nhiều, do phụ thuộc vào nguồn lực mà trường có và phải đảm bảo chất lượng. Ví dụ như Trường đại học Thương mại cũng chỉ tuyển 400 – 500 sinh viên mỗi năm; Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội cũng chỉ tuyển 100 – 200 sinh viên mỗi năm.
TS Hồng cũng nêu một thực trạng ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo: “Chương trình đào tạo du lịch giữa các trường đại học đến nay vẫn chưa được thống nhất. Thiếu hệ thống giáo trình cốt lõi, tài liệu tham khảo khá phong phú nhưng chất lượng hạn chế. Trong khi đó, các trường không thể sử dụng giáo trình nước ngoài đề giảng dạy chính thức vì nội dung, tên môn học, số tín chỉ… có sự khác biệt lớn với Việt Nam”.
PGS Lê Thị Thu Thủy, đại diện cho nhóm nghiên cứu Trường đại học Ngoại thương, cũng chia sẻ một số thông tin về sự tăng trưởng của hệ thống khách sạn và khu nghỉ dưỡng, từ đó phác thảo nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao quản trị khách sạn tại Việt Nam. PGS Thủy nhận định: “Số khách sạn tăng khoảng 10% năm. Dự kiến vào tháng 12.2020 chúng ta có 26.800 khách sạn với 532.000 phòng. Sự tăng trưởng đáng kể này gắn liền với tiềm năng lớn về cơ hội việc làm trong ngành quản trị khách sạn”.
Theo PGS Thủy, thực tế hiện nay sinh viên tốt nghiệp quản trị khách sạn chỉ cần có chút khác biệt về ngoại ngữ, kinh nghiệm làm việc, là đã có thể dễ dàng tìm được những công việc tốt với mức lương cao. Nhưng thay vì chạy theo quy mô, các cơ sở đào tạo cần hướng tới tăng cường đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.