Theo dự thảo, tuổi của học sinh vào học lớp 6 là 11 tuổi. Tuổi của học sinh vào học lớp 10 là 15 tuổi. Đối với những học sinh được học vượt lớp ở cấp học trước hoặc học sinh vào cấp học ở độ tuổi cao hơn tuổi quy định thì tuổi vào lớp 6 và lớp 10 được giảm hoặc tăng căn cứ vào tuổi của năm tốt nghiệp cấp học trước.
Việc xem xét đối với từng trường hợp cụ thể được thực hiện theo các bước sau: cha mẹ hoặc người đỡ đầu có đơn đề nghị với nhà trường; hiệu trưởng nhà trường thành lập hội đồng khảo sát, tư vấn.
Hội đồng này gồm thành phần cơ bản: đại diện của lãnh đạo trường và ban đại diện cha mẹ học sinh của trường; giáo viên dạy lớp học sinh đang theo học.
Học sinh là người dân tộc thiểu số, học sinh khuyết tật, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, học sinh ở nước ngoài về nước có thể vào cấp học ở tuổi cao hơn 3 tuổi so với tuổi quy định.
Học sinh trong độ tuổi trung học cơ sở, trung học phổ thông ở nước ngoài về nước, con em người nước ngoài làm việc tại Việt Nam được học ở trường trung học cơ sở hoặc trường trung học phổ thông tại nơi cư trú hoặc trường trung học cơ sở và trung học phổ thông ở ngoài nơi cư trú nếu trường đó có khả năng tiếp nhận.
Việc xem xét đối với từng trường hợp cụ thể được thực hiện theo các bước như: cha mẹ hoặc người đỡ đầu có đơn đề nghị với nhà trường; hiệu trưởng nhà trường tổ chức khảo sát trình độ của học sinh và xếp vào lớp phù hợp.
Thủ tục xem xét đối với từng trường hợp cụ thể được thực hiện theo 3 bước. Thứ nhất, cha mẹ học sinh có đơn đề nghị với nhà trường. Bước thứ hai, hiệu trưởng nhà trường thành lập hội đồng khảo sát, tư vấn, gồm: hiệu trưởng hoặc phó hiệu trưởng và ban đại diện cha mẹ học sinh của trường; giáo viên dạy lớp học sinh đang học, giáo viên dạy lớp trên, nhân viên y tế, tổng phụ trách Đội. Cuối cùng, căn cứ kết quả khảo sát của hội đồng tư vấn, hiệu trưởng xem xét quyết định.
|