Đây là con số được “Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2020” của viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) vừa công bố.
Toàn cảnh Hội thảo. Ảnh: DNVN/Bảo Long
Sáng 17/6, tại Hà Nội, viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) và viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) Việt Nam đã phối hợp tổ chức Hội thảo công bố “Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2020” với chủ đề “Củng cố điểm tựa tài khóa cho phát triển”, gồm 7 Chương và 2 Phụ lục.
Báo cáo của VEPR nhận định, sự chuyển hướng thương mại, dòng vốn đầu tư và đặc biệt là chuỗi cung ứng toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ, khiến viễn cảnh thế giới trở nên bất trắc hơn bao giờ hết, đồng thời đặt khu vực Đông Nam Á trước những bài toán lớn.
Việt Nam tiếp tục hội nhập quốc tế sâu rộng và ngày càng nhạy cảm với biến động bên ngoài.
Trên cơ sở đó, hệ thống thuế của Việt Nam có thể bị bào mòn nhanh chóng dưới áp lực cạnh tranh quốc tế. Điều này đã gây những áp lực lớn về điều hành chính sách tài khóa của Việt Nam.
Báo cáo cho biết hiện nay, thu ngân sách vẫn không đủ bù đắp cho chi ngân sách. Mức thâm hụt ngân sách của năm 2019 ước tính vào khoảng 209.500 tỷ đồng, bằng 3,4% GDP, thấp hơn so với mức dự toán đã được Quốc hội phê duyệt hồi đầu năm (3,6%). Thâm hụt ngân sách năm 2019 tăng so với năm 2018 do chi thường xuyên tăng. Cơ cấu chi không có sự cải thiện khi chi đầu tư phát triển chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ (dưới 30%). Bình quân giai đoạn 2006-2019, thu ngân sách chiếm khoảng 25,16% GDP.
Tuy nhiên, những thành công kể trên đang dựa trên một nền tảng vĩ mô còn thiếu chắc chắn và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu hay việc làm ngày càng phụ thuộc vào khu vực, thậm chí là một vài doanh nghiệp FDI.
Khối doanh nghiệp tư nhân còn dưới mức tiềm năng và phải chịu nhiều rào cản từ môi trường thể chế và kinh doanh trong nước.
Không gian chính sách cho chính sách tiền tệ dần bị thu hẹp bởi sức ép lạm phát gia tăng cũng như bởi những cam kết đối với tỷ giá.
Cùng với đó, doanh nghiệp FDI có nguy cơ trốn tránh thuế cao nhất. Trong điều kiện các yếu tố khác là như nhau, tỷ suất lợi nhuận (ROA và ROE) khai báo của các doanh nghiệp thuộc khu vực FDI so với các doanh nghiệp trong nước có xu hướng thấp hơn hẳn, bất chấp việc họ có những yếu tố thuận lợi hơn về thị trường, công nghệ, hay có mức độ thâm dụng vốn thấp hơn hẳn khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Ước tính trung bình trong giai đoạn 2013-2017, mức thuế thất thu do hành vi trốn và tránh thuế mỗi năm dao động trong khoảng 13.300 đến 20.700 tỷ đồng, tương đương 6,4-9,9% số thu thuế thu nhập doanh nghiệp. Những con số này lớn gấp khoảng 3-4 lần con số vi phạm phát hiện hằng năm bởi các cơ quan quản lý. Trong đó, mức thất thu thuế mỗi năm từ khu vực FDI có thể lên tới 8.000-9.000 tỷ đồng, còn từ khu vực ngoài nhà nước có thể lên tới 10.500 tỷ đồng.
Bàn về xu hướng dịch chuyển giá trị đầu tư, theo các chuyên gia từ VEPR, xu hướng chuyển giá trị đầu tư từ các khu vực chịu tác động của chiến tranh thương mại Mỹ – Trung hay giữa Hàn Quốc với Nhật Bản đã tác động nhiều đến sự phân cực của kinh tế thế giới.
Ngày càng nhiều tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp lớn đang tránh rủi ro từ chiến tranh thương mại, cụ thể là chuyển khỏi Trung Quốc, Hàn Quốc để sang nước thứ 3 nhằm tránh tác động không mong muốn về trừng phạt thương mại.
Việt Nam đang nổi lên là nền kinh tế năng động, tham gia vào nhiều FTAs lớn như CPTPP, EVFTA và sắp tới là RCEP… Các thị trường EU, Mỹ, Nhật miễn thuế hàng hóa có xuất xứ Việt Nam đang được mở rộng, đây vừa là cơ hội cho Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam và ngay cả các doanh nghiệp đã, đang và sẽ đầu tư vào Việt Nam.
Tuy nhiên, VEPR cảnh báo Việt Nam nên thận trọng để không trở thành sân sau của Trung Quốc và Hàn Quốc để xuất khẩu sang Mỹ.
Hiện, giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đang đạt kim ngạch rất lớn, xuất siêu mạnh sang Mỹ và nhiều mặt hàng Việt Nam đang chiếm tỷ trọng cao sang Mỹ như thủy sản, giày da, may mặc, thép, điện thoại, máy tính.
Bởi vậy, Chính phủ Việt Nam cần rà soát lại các chính sách ưu đãi về thuế khóa hay đất đai đối với FDI nhằm tạo ra môi trường bình đẳng hơn với các doanh nghiệp trong nước.
Cân nhắc những yếu tố tích cực cũng như tiêu cực đang tác động đối với kinh tế Việt Nam hiện nay, VEPR đưa ra các dự báo về tăng trưởng và lạm phát theo các kịch bản khác nhau. Với việc gỡ bỏ phong tỏa xã hội sớm hơn dự kiến (từ cuối tháng 4 so với dự kiến cuối tháng 5/2020 như trước đây), VEPR nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam lên so với dự báo trước đây.
Theo đó, kịch bản lạc quan nhất được xây dựng dựa trên giả định, bệnh dịch trong nước được khống chế hoàn toàn vào cuối tháng 4-2020 và hoạt động kinh tế dần trở lại bình thường. Trong khi đó, thế giới cũng bắt đầu nới dần các biện pháp phong tỏa từ đầu tháng 6, giúp các ngành xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng trưởng tốt trong nửa cuối của năm.
Tuy nhiên, các hoạt động kinh tế trong lĩnh vực du lịch, lưu trú, vận tải hành khách vẫn còn dè dặt và chỉ dần hồi phục. Tác động xấu nhất của Coѵīd-19 sẽ rơi vào quý II/2020. Với kịch bản lạc quan này, tăng trưởng kinh tế Việt Nam được dự báo đạt khoảng trên 5,3% trong cả năm 2020.
Với các kịch bản trung tính và bi quan, bệnh dịch ở nhiều trung tâm kinh tế – tài chính quan trọng trên thế giới được giả định có thể tái bùng phát, và các nước phải kéo dài thời gian phong tỏa sang nửa sau quý III, thậm chí quý IV/2020. Mức độ tác động của Coѵīd-19 lên các ngành nông lâm ngư nghiệp, sản xuất chế biến chế tạo và các ngành trong khu vực dịch vụ sẽ nghiêm trọng hơn.
Mức tăng trưởng trong năm 2020 của kinh tế Việt Nam có thể chỉ là 3,9% trong kịch bản trung tính, hoặc chỉ là 1,7% trong kịch bản bi quan.
Về lạm phát, báo cáo của VEPR nhận định, rủi ro lạm phát trung bình, cầu kéo thấp, nhưng rủi ro từ lương thực thực phẩm tăng, rủi ro từ tỷ giá trung bình, đồng thời dự đoán lạm phát của năm 2020 sẽ dao động ở mức 3,5-4%.